Đề 1
-
5927 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
30 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
(1)Trong cuộc trò chuyện lan man, một người bạn vong niên của tôi than thở rằng:“Điều đáng thất vọng nhất về giới trẻ ngày nay là họ ưa hưởng thụ quá!". Một người khác cười:“Hưởng thụ thì có gì sai? Thú thật là tôi đây, tôi cũng ra hưởng thụ”.
(2) Và tôi, tôi đồng ý với người bạn thứ hai. Tôi cũng không cho rằng sự ưa hưởng thụ là một điều sai trái hay là con đường dẫn đến vấp ngã. Ngược lại sai lầm của chúng ta nằm ở chỗ chúng ta thường đắm chìm trong ảo giác và ít khi thực sự biết hưởng thụ. Hưởng thụ thực sự không phải tàn phá, bất cứ thứ gì kể cả chính mình. Hưởng thụ thực sự là mong muốn giữ gìn, bảo vệ, bồi đắp... kể cả chính mình.
(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, NXB Hội nhà văn, 2015)
(NB) Xác định phép liên kết chính được sử dụng trong phần (2) của đoạn trích.
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phép liên kết trong đoạn văn.
Cách giải:
Phép liên kết chính được sử dụng trong đoạn thứ 2 là: Phép lặp (Hưởng thụ)
Câu 2:
(TH) Trong đoạn trích, người bạn vong niên của tác giả thất vọng điều gì nhất về giới trẻ?
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
Trong đoạn trích, người bạn vong niên thất vọng nhất về giới trẻ là: “họ ưa hưởng thụ”.
Câu 3:
(TH) Anh/chị hiểu thế nào về câu: “Hưởng thụ thực sự là mong muốn giữ gìn, bảo vệ, bồi đắp... kể cả chính mình”?
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
“Hưởng thụ thực sự là mong muốn giữ gìn, bảo vệ, bồi đắp…kể cả chính mình” có thể hiểu là: để có thể hưởng thụ thực sự, chúng ta cần phải học hỏi và có hiểu biết nhất định về điều ta đang làm, đang tận hưởng, đang thưởng thức. Biết mình có gì, hiểu thứ mình có, và biết cách tận hưởng tối đa những gì ta xứng đáng được hưởng.
Câu 4:
(VD) Anh/chị có đồng tình với quan điểm: “Tôi cũng không cho rằng sự ưa hưởng thụ là một điều sai trái hay là con đường dẫn đến vấp ngã” không? Vì sao?
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
- Đồng tình với quan điểm của tác giả.
- Vì: hưởng thụ là một hành động hoàn toàn bình thường để tận hưởng thành quả mình đã làm ra, để sống trọn vẹn với thực tại, đó còn là cách cảm nhận hết ý nghĩa của cuộc đời. Hưởng thụ chỉ có ý nghĩa tiêu cực khi con người ta bị “chìm trong ảo giác”, hiểu sai lạc về hưởng thụ, để từ đó coi hưởng thụ là lối sống trụy lạc, xấu xí.
Câu 5:
II. LÀM VĂN
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, Anh/ chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc hưởng thụ thực sự.
Phương pháp:
- Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận Ý nghĩa của việc hưởng thụ thực sự
- Phân tích, lí giải, tổng hợp.
Cách giải:
* Yêu cầu:
- Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
1. Giới thiệu vấn đề: Ý nghĩa của việc hưởng thụ thực sự.
2. Giải thích
Hưởng thụ là tận hưởng tối đa những những gì đẹp đẽ, tươi đẹp nhất mà cuộc sống này mang lại cho bạn.
3. Bàn luận
- Ý nghĩa của sự hưởng thụ:
+ Hưởng thụ đem lại cho ta sự di dưỡng về tâm hồn.
+ Hưởng thụ đem lại cho ta sự thoải mái trong cảm xúc, khiến ta yêu con người, cuộc sống này hơn.
+ Hưởng thụ cũng là cách để ta tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp cuộc sống, sống ý nghĩa với từng phút giây.
+….
- Đừng đồng nghĩa việc hưởng thụ chỉ đơn thuần là vật chất, mà hưởng thụ còn là sự tận hưởng gì đẹp đẽ mà cuộc sống đẹp lại cho bạn mỗi ngày.
- Để có thể hưởng thụ thực sự, chúng ta cần phải học hỏi và có hiểu biết nhất định về điều ta đang làm, đang tận hưởng, đang thưởng thức. Biết mình có gì, hiểu thứ mình có, và biết cách tận hưởng tối đa những gì ta xứng đáng được hưởng, đó mới là hưởng thụ.
- Tuy nhiên, khi tuyệt đối hóa tâm lí hưởng thụ, con người sẽ dễ dàng sa vào lối sống ăn chơi sa đọa, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân.
- Mở rộng vấn đề: Phê phán những kẻ lười làm ham hưởng thụ.
4. Tổng kết vấn đề
Câu 6:
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích sau:
“…Không một phút nghỉ tay nghi mắt, phải phải luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sóng thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đã nơi di nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm của trận, có bốn cửa từ một của sinh, của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa từ để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phia bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bàn sóng đáng luồng rồi, ông đồ ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trải tiền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn của tử. Ông đồ vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông trảnh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sẩn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, Chỉ còn vắng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trung vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vi thứ ba nữa...” Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luông chết cả. Cái không sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thắng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyên vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hàm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phả rồi cá tủa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
(Trích Người Lái Đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ Văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr.189-190)
Phương pháp:
- Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích. - Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.
Cách giải:
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân: Cuộc đời, con người và phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà thơ.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”: hoàn cảnh sáng tác, vị trí, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
- Khái quát nội dung: Hình tượng người lái đò sông Đà.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chân dung người lái đò.
- Tên gọi, lai lịch: Được gọi là người lái đò Sông Đà và người lái đò Lai Châu. Tên gọi đã ẩn chứa trong đó địa danh sinh sống, địa danh làm việc, nghề nghiệp. Người làm nghề chèo đò suốt dọc Sông Đà hơn mười năm liền. Nhân vật không có tên riêng mà gọi tên bằng địa danh sinh sống, địa danh làm việc. Tác giả muốn khẳng định rằng không chỉ có một ông lái đò phi phàm xuất chúng mà đây là một đại diện tiêu biểu cho vô số chất vàng mười đang lấp lánh tỏa sáng ở mảnh đất Tây Bắc.
- Chân dung: In đậm dấu ấn nghề nghiệp.
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào,
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng
+ Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông.
+ Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
+ Cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun.
+ Ngực vú bả vai bầm lên một khoanh củ nâu – vết nghề nghiệp do đầu sào gửi lại. Đây là thứ huân chương lao động siêu hạng.
=> Bức chân dung rất trẻ tráng dù ông lái đò đã ngoài 70 tuổi và đây là thứ ngoại hình được hun đúc được dinh ra từ sông nước dữ dội, hiểm trở. Cho thấy sự gắn bó với nghề nghiệp của ông lái đò. Ông lái đò đã chèo lái, xuôi ngược trên Sông Đà hơn 100 lần, chính tay ông cầm lái khoảng hơn 60 lần. Ông đã gắn bó với nghề này hơn 10 năm trời.
2. Vẻ đẹp hình tượng người lái đò thông qua hai trùng vi thạch trận.
a. Vẻ đẹp trí dũng thể hiện qua cuộc chiến với Sông Đà.
- Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo, hùng vĩ:
Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức:
+ Một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm.
+ Một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo.
=> Cuộc chiến không cân sức nhằm tôn vinh vẻ đẹp của con người trong công cuộc trinh phục tự nhiên.
- Diễn biến cuộc chiến.
(+) Trùng vi thạch trận thứ hai.
+ Khái quát lại sự nguy hiểm của Sông Đà trong trùng vi thạch trận thứ hai.
+ Vẻ đẹp người lái đò trong cuộc chiến ở trùng vi thứ hai:
++ Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật.
++ Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá, ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ. Ông ghì cương lái miết về phía luồng cửa sinh sau khi bám chắc luồn nước đúng.
++ Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
(+) Trùng vi thạch trận thứ 3.
+ Trùng vi thạch trận thứ ba của Sông Đà.
+ Người lái đò Sông Đà: Chứng tỏ tài nghệ chèo đò tuyệt vời của mình.
++ Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang.
=> Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng.
- Nguyên nhân chiến thắng:
+ Thứ nhất, đó là chiến thắng của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống.
+ Thứ hai, đây là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
+ Thứ ba, là sự tài hoa của một người nghệ sĩ.
b) Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ:
- Chất tài hoa: Với nhà văn, tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Sở dĩ có thể băng băng vượt qua thác giữ, xé toang hết lớp này đến lớp khác của các trùng ghi thạch trận với phong thái rất ung dung, thảnh thơi. Bởi lẽ ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Sông Đà với ông giống như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, dấu chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Ông đã nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả các luồng nước.
- Chất nghệ sĩ:
+ Đôi cánh tay chèo lái và đôi chân giữ thế tạo đà kết hợp như vũ điệu nhịp nhàng với bản giao hưởng của dòng sông. Người lái đò đã điều khiến chiếc thuyền như một mũi tên tre
=> Nó giống như một màn biểu diễn nghệ thuật hoàn hảo.
- Phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng.
+ Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.
+ Qua thác ghềnh, ông lái lạnh lùng gan góc là thế, nhưng lúc bình thường thì lại nhớ tiếng gà gáy nên buộc một cái bu gà vào đuôi thuyền, bởi “có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ ruộng nương bản mường mình”. Chi tiết ấy đã làm rõ hơn chất nghệ sĩ ở người lái đò sông Đà.
3. Cách nhìn nhận con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận con người từ góc độ tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước Cách mạng hình ảnh người nghệ sĩ mà ông hướng tới là những người có tài năng khí phách phi thường thì sau Cách mạng hình tượng người nghệ sĩ có thể tìm thấy ở ngay trong cuộc chiến đấu, lao động sản xuất hàng ngày. - Nguyên Tuân luôn vận dụng vốn hiểu biết sâu rộng ở mọi lĩnh vực kết hợp với sự độc đáo, uyên bác, điêu luyện trong việc tiếp cận, nhìn nhận con người.
- Cái đẹp của con người trong thời kì này trong nhìn nhận của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
III. Kết bài:
- Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà.
- Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.