Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.
1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.
2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...
3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến
hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.
4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.
5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).
6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.
7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.
8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.
(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)
Theo Tiến sĩ Phi, về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có, chúng ta sẽ đầu tư về lĩnh vực nào cho máy móc?
A. Nâng công suất
B. Đào tạo nhân lực
C. Ưu tiên thiết kế có trình độ chế tạo cao
D. Cả ba phương án trên
Theo Tiến sĩ Phi, về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có, chúng ta sẽ đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, ưu tiên thiết kế có trình độ chế tạo cao.
Đáp án cần chọn là: D
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong văn bản, dự án đã tiến hành lai tạo giống bò nào để thụ tinh cho bò cái địa phương?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Đâu là nhận xét đúng về tình hình chăn nuôi bò ở các tỉnh miền núi phía Bắc?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Phương pháp nuôi bò nào được nhắc đến trong văn bản trên?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong văn bản trên, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt” ở khu vực nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Ý chính của văn bản trên là:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án xây dựng mô hình trồng cỏ voi lai VA06 đạt năng suất bao nhiêu?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án nuôi bò ở trên đem lại ý nghĩa gì?
Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 - 9.
1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới.
2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,...
3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến
hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh.
4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”.
5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP).
6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao.
7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030.
8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh.
(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020)
Bước ngoặt lớn của ngành ô tô thế giới là gì?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
(1) Những năm gần đây, chương trình quốc gia về cải tạo đàn bò nội bằng các giống bò Zebu như: Brahman, Sahiwal, Droutmaster... dần được quan tâm ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Trung. Trên cả nước, số lượng bò lai Zebu tăng từ 25 lên 50-75%, trong đó nhiều tỉnh/thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Nghệ An đạt 70-80%. Việc Zebu hóa đã giúp nâng tầm vóc đàn bò lên 25-35%, tỷ lệ thịt xẻ cũng tăng 17- 22% so với bò địa phương. Song chương trình chủ yếu triển khai ở những vùng có điều kiện thuận lợi như đồng bằng, các vùng ven đô. Ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, số lượng tổng đàn thấp (lần lượt khoảng 105.200, 102.950, 21.220 con), việc chăn nuôi bò còn phân tán ở các hộ gia đình, chủ yếu là giống bò vàng địa phương (chiếm 80%) có khối lượng trưởng thành thấp, sinh trưởng chậm, khối lượng trung bình con đực là 220-250 kg và con cái từ 160-180 kg, tỷ lệ thịt xẻ chỉ khoảng 40-42% khối lượng sống. Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dù các địa phương này đã đầu tư cho công tác cải tạo đàn bò theo hướng Zebu hoá nhưng do kinh phí còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và sự hiểu biết của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa cao nên kết quả thu được còn hạn chế.
(2) Mặc dù 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang đều thuộc vùng trung du, miền núi, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là trâu, bò, nhưng việc chăn nuôi bò vẫn theo tập quán lạc hậu, chăn nuôi quảng canh, quy mô đàn nhỏ lẻ, thường chỉ 1-2 con/hộ... nên chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, việc dự trữ thức ăn xanh, khô, thô cho bò vào mùa rét còn hạn chế, do đó cứ đến mùa đông là hàng trăm con trâu, bò ở các huyện vùng cao bị chết đói, rét, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế - xã hội.
(3) Nhằm thúc đẩy phát triển nghề chăn nuôi bò tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương, Bộ KH&CN đã phê duyệt triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình nuôi bò thịt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, thuộc “Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025” (Chương trình nông thôn miền núi). Dự án do Viện Chiến lược và Chính sách Dân tộc chủ trì, cơ quan chuyển giao công nghệ là Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Qua hơn 2 năm thực hiện, dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN về chăn nuôi bò, giúp nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò của địa phương; đồng thời tuyên truyền, tập huấn làm thay đổi nhận thức của đồng bào từ chăn thả sang chăn nuôi công nghiệp theo hướng chủ động thức ăn thô, xanh thông qua trồng cỏ ở những vùng đất trồng trọt hiệu quả thấp hoặc chưa sử dụng. Kết quả đạt được của dự án mở ra tiềm năng lớn giúp đảm bảo vệ sinh môi trường, giải quyết việc làm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần từng bước đưa người dân địa phương thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình.
(4) Nhiều điểm sáng về áp dụng công nghệ, kỹ thuật mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Dự án đã chuyển giao nhiều tiến bộ KH&CN giúp người chăn nuôi ở các địa phương dần thích nghi và hướng tới tiếp cận với mô hình phát triển đàn bò quy mô lớn hơn, tập trung hơn. Cụ thể:
(5) Dự án đã thực hiện lai tạo giữa giống bò đực Brahman với bò cái của địa phương thông qua 2 hình thức: sử dụng tinh đông lạnh của giống bò thuần Brahman đỏ chất lượng cao để thụ tinh nhân tạo cho bò cái địa phương ở một số khu vực có số lượng bò cái tương đối tập trung và địa hình thuận tiện để tạo “phong trào” cải tiến đàn bò thịt; sử dụng bò đực 3/4 máu Brahman đỏ phối giống trực tiếp với bò cái nền của mô hình. Nhờ đó, đã tạo được đàn bò có tỷ lệ máu ngoại cao làm nền phục vụ công tác cải tạo giống sau này, giúp cải thiện tầm vóc, tăng năng suất đàn bê sinh ra, bò trưởng thành có tầm vóc lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 15 đến 20% so với giống bò địa phương.
(6) Bên cạnh phương pháp lai tạo giống được chuyển giao, dự án đã hỗ trợ triển khai nhiều tiến bộ kỹ thuật như: chọn bò cái làm giống có tỷ lệ sinh sản, sinh trưởng tốt hơn; phát hiện bò động dục, xác định thời gian phối giống thích hợp trong kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho bò...; chăm sóc nuôi dưỡng bò cái qua các giai đoạn: sơ sinh, tơ lỡ, chửa đẻ, nuôi con; tập cho bê con ăn sớm để tách mẹ sớm, giúp bò mẹ sớm động dục trở lại sau khi đẻ; chăm sóc nuôi dưỡng và vỗ béo bê, bò đực theo từng giai đoạn đến lúc bán giết thịt; nuôi vỗ béo bò gầy, bò thải loại; phòng bệnh, vệ sinh thú y... giúp mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trong đó, việc áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc ở giai đoạn nuôi nhốt vỗ béo, chuẩn bị giết thịt không những giúp tăng năng suất mà còn kiểm soát được mức độ an toàn của sản phẩm cung cấp tới người tiêu dùng, đây là kỹ thuật rất mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
(7) Để đảm bảo nguồn thức ăn cho bò trong suốt quá trình nuôi, nhất là vào mùa rét, dự án đã hỗ trợ trồng và thâm canh giống cỏ VA06 năng suất cao, chất lượng phù hợp với các huyện vùng dự án, nhờ đó tạo được nguồn thức ăn xanh thô chủ động, đồng thời hỗ trợ hiệu quả công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Đặc biệt, dự án còn áp dụng công nghệ ủ chua để chế biến thức ăn, giúp tận dụng các loại phế, phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, thân cây ngô, thân, ngọn, lá sắn... tạo ra công thức thức ăn tinh từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Việc tạo được khẩu phần ăn có giá trị dinh dưỡng cao không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả chăn nuôi, mà còn góp phần bảo vệ môi trường do tận dụng một lượng lớn phế phụ phẩm sau thu hoạch và chế biến thải ra.
(8) Trong công tác phòng, chống bệnh tật cho bò, bên cạnh việc áp dụng các kỹ thuật về xây dựng chuồng trại tập trung, vệ sinh thú y, xử lý chất thải, giúp chống gió lùa vào mùa đông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khuôn viên hộ và làng, bản..., dự án còn chuyển giao cho cán bộ kỹ thuật địa phương và người chăn nuôi các biện pháp phòng, chữa bệnh cho bò thông qua việc sử dụng các loại vắcxin: tụ huyết trùng, lở mồm long móng...
(9) Đến nay, dự án đã đào tạo được 10 kỹ thuật viên, tập huấn cho hơn 300 lượt người dân trong vùng tiếp thu và làm chủ các quy trình kỹ thuật mới. Đồng thời, xây dựng thành công mô hình nuôi bò sinh sản với 240 bò cái nền địa phương và 4 bò đực 3/4 máu bò Brahman đỏ. Số bê sinh ra sau đợt phối giống lần 1 là 180, gồm 90 con đực và 90 con cái (hiện có 216 bò cái đang chửa sau đợt phối giống lần 2). Khối lượng sơ sinh của bê ≥ 22 kg (tăng 10-12% so với bê thường), khối lượng 3 tháng đạt 90-100 kg, khối lượng 6 tháng tuổi đạt 115-130 kg, dự kiến sau 24 tháng tuổi sẽ đạt 290-330 kg/con. Dự án còn xây dựng thành công mô hình trồng cỏ voi lai VA06 thâm canh năng suất cao, chất lượng tốt với diện tích 6 ha, đạt chỉ tiêu 350 tấn/ha/năm, dự kiến đến khi kết thúc sẽ tạo ra 6.300 tấn thức ăn thô xanh.
(10) Theo tính toán, sau khi dự án kết thúc, các mô hình tập trung và mô hình vệ tinh của dự án sẽ cho ra 366 con bê lai với trên 50% máu bò Brahman. Trong số bê lai này, những con cái sẽ tiếp tục được nuôi phục vụ nhân giống chất lượng cao cung cấp cho các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc; còn bê đực được nuôi và vỗ béo bán thịt ở 20 tháng tuổi với khối lượng bình quân 350 kg/con, tạo ra lượng thực phẩm chất lượng. Có thể nói, dự án không chỉ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức về tầm quan trọng của KH&CN cho người dân vùng cao, mà còn giúp tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
(Nguồn: “KH&CN thúc đẩy chăn nuôi bò thịt tại một số tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc”, Tuấn Hải, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của đoạn (9) là gì?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Theo văn bản, ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã có định hướng gì?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng” chứng minh cho điều gì?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” còn tạo nên hiệu quả xã hội nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của đoạn (1) là?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng
(1) Với quỹ đất lâm nghiệp chiếm hơn 55% diện tích tự nhiên, trong đó rừng trồng có diện tích gần 120.000 ha, hàng năm cung cấp sản lượng gỗ có thể khai thác trên 300.000 m 3 (keo, bạch đàn...), Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng trồng rất lớn. Mấy năm gần đây, các cơ sở chế biến gỗ bóc, gỗ thanh quy mô hộ gia đình đang phát triển nhanh tại các huyện
có nhiều rừng trồng ở Phú Thọ (toàn tỉnh có khoảng 550 cơ sở chế biến gỗ nhỏ lẻ). Tuy nhiên, công nghiệp chế biến, sử dụng gỗ rừng trồng ở đây còn bị đánh giá là thiếu quy hoạch và phát triển không bền vững, hiệu quả sử dụng nguyên liệu gỗ thấp, chưa mang lại thu nhập xứng đáng cho người trồng rừng và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do gỗ được sử dụng ở dạng thô: bán gỗ tròn cho các nhà máy giấy, một số cơ sở thu mua gỗ làm nguyên liệu băm dăm gỗ xuất khẩu, một phần nhỏ khác làm nguyên liệu gỗ bóc. Lượng gỗ sử dụng làm gỗ xẻ đóng đồ mộc hầu như không đáng kể. Theo kết quả điều tra, hiện tại ở Phú Thọ chưa có cơ sở chế biến gỗ xẻ và sấy khô quy mô lớn, sử dụng công nghệ và thiết bị tiên tiến để có thể tạo ra sản phẩm gỗ đáp ứng yêu cầu sản xuất đồ mộc chất lượng cao. Các xưởng chế biến gỗ rừng trồng hiện chủ yếu ở quy mô nhỏ (công suất tiêu thụ nguyên liệu từ 10 đến 20 m 3 /ngày), sản phẩm gỗ xẻ chủ yếu sử dụng làm cốp pha xây dựng hoặc làm nguyên liệu đóng các sản phẩm mộc dân dụng chất lượng thấp, phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Đây là nguyên nhân chính hạn chế khả năng đưa cây keo (sản phẩm chủ lực của rừng trồng) trở thành hàng hóa và là sản phẩm đặc trưng của bà con nhân dân miền núi.
(2) Tăng cường và chủ động khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, đặc biệt là sử dụng gỗ rừng trồng là định hướng của ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Trước nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu gỗ nói chung, gỗ keo nói riêng của ngành công nghiệp chế biến gỗ ngày càng tăng, việc đầu tư xây dựng một mô hình chế biến, sấy gỗ rừng trồng nói chung và gỗ keo nói riêng với công nghệ tiên tiến trong thời điểm hiện nay là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của tỉnh Phú Thọ, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người trồng rừng (nhờ việc thu mua gỗ tròn làm gỗ xẻ giá cao hơn). Xuất phát từ thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Thương mại và Xây dựng Ngọc Ninh đã đề xuất và được phê duyệt thực hiện dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” (thuộc Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025). Dự án được thực hiện với sự hỗ trợ công nghệ của Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam).
(3) Nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới
Dự án “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng tại tỉnh Phú Thọ” được thực hiện với mục tiêu xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất 90 m 3 /mẻ nhằm nâng cao chất lượ ng gỗ phục vụ chế biến ván ghép thanh, góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng ở địa phương, phát triển chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm gỗ keo chất lượng cao.
(4) Sau hơn 2 năm thực hiện (tháng 11/2016-4/2019), dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu và nội dung đề ra. Cụ thể: dự án đã xây dựng được 1 hệ thống lò sấy gỗ với công nghệ và thiết bị tiên tiến, chế độ sấy được điều khiển, giám sát tự động, công suất sấy 120 m 3 /mẻ (vượt hơn 30% so với kế hoạch) tại xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; xây dựng được quy trình công nghệ sấy gỗ rừng trồng (gỗ keo) phù hợp với hệ thống lò sấy đã xây dựng; tiếp nhận thành công công nghệ sấy gỗ điều khiển, giám sát tự động để sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng...
(5) Bên cạnh đó, dự án còn đào tạo được 5 kỹ thuật viên làm chủ công nghệ sấy gỗ rừng trồng, từ bước lựa chọn, phân loại gỗ trước sấy; sắp xếp đưa gỗ vào - ra lò sấy; kỹ thuật sấy gỗ xẻ từ nguồn gỗ keo lai và keo tai tượng; kỹ thuật vận hành lò hơi; kỹ thuật đánh giá chất lượng gỗ xẻ trước và sau khi sấy, đồng thời tổ chức tập huấn cho 70 lao động phổ thông về kỹ thuật vận hành hệ thống sấy gỗ... Đặc biệt, trên cơ sở công nghệ được chuyển giao từ Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, dự án đã sản xuất được 500 m 3 sản phẩm gỗ sấy đạt độ ẩm theo yêu cầu (10-12%), tỷ lệ hư hỏng gỗ sấy do khuyết tật thấp (dưới 15%). Sản phẩm gỗ sấy của dự án đã được Công ty TNHH Trung Thành (Phú Thọ) ký hợp đồng tiêu thụ với công suất 4.000 m 3 /năm.
(6) Nói về hiệu quả của dự án, ông Đỗ Hữu Ngọc - Chủ nhiệm dự án cho biết: về mặt kinh tế, nếu bán gỗ xẻ không sấy thì lợi nhuận thu được lớn hơn bán gỗ tròn khoảng 130.000 đồng/m 3 , còn khi bán gỗ xẻ đã sấy lợi nhuận tăng lên khoảng 370.000 đồng/m 3 . Như vậy, lợi nhuận công ty thu được khi bán gỗ xẻ đã sấy so với không sấy hiện tại là khoảng 240.000 đồng/m 3 , con số này chưa phải là cao nhất do chi phí ban đầu (khấu hao tài sản, thiết bị) còn lớn. Sau khi phát huy hết công suất, giảm chi phí khấu hao tài sản, chi phí nguyên liệu đốt nhờ tận dụng phế phẩm từ quá trình xẻ gỗ, lợi nhuận Công ty thu được sẽ cao dần lên. Bên cạnh hiệu quả kinh tế trực tiếp, hệ thống sấy gỗ của Công ty đi vào hoạt động còn tạo thêm công ăn việc làm thường xuyên cho gần 30 công nhân.
(7) Về hiệu quả xã hội, dự án được triển khai thành công đã tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, thúc đẩy phát triển nghề trồng rừng và công nghiệp chế biến gỗ ở địa phương; tạo thêm công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động vùng nguyên liệu, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần hỗ trợ thiết thực cho chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Kết quả của dự án còn là mô hình hữu hiệu giới thiệu việc ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi để nhân rộng ra các địa phương khác.
(Nguồn: “Ứng dụng công nghệ mới trong sấy gỗ rừng trồng”, Công Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Theo văn bản, tại tỉnh Phú Thọ đã thực hiện dự án gì để nâng cao chất lượng sản xuất gỗ?