Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Hệ máy phát laze được sáng chế có độ đơn sắc bao nhiêu picô mét?
A. 5 picô mét
B. 6 picô mét
C. 7 picô mét
D. 8 picô mét
Hệ máy phát laze được sáng chế có độ đơn sắc 5 picô mét
Đáp án cần chọn là: A
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Vệ tinh và LIDAR có tác dụng gì trong đời sống?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 có tác dụng trong lĩnh vực nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Máy phát laze được vận hành theo nguyên lý nào dưới đây?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Đoạn thứ (3) nói về thành tựu KN&CN trong lĩnh vực nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong văn bản, sản phẩm nào đã được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ”?
Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 – 10.
1. Ngày 20.07.1969 Neil Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng, đánh dấu cột mốc quan trọng của nhân loại. Nhưng đằng sau đó là một cuộc đua quyết liệt giữa Mỹ và Liên Xô.
2. Công nghệ tên lửa vũ trụ hiện đại được khởi nguồn từ Viện nghiên cứu quân sự của Đức Quốc xã với giám đốc kỹ thuật Wernher von Braun khi đó tuổi đời còn rất trẻ. Đỉnh cao trong sự nghiệp của ông là việc phát triển thành công tên lửa cỡ lớn dài 14 mét có tên V2. Tháng 10/1942 V2 được phóng thành công lên tới độ cao 84,5 km (vượt qua ranh giới bầu khí quyển 80 km - theo tiêu chuẩn của NASA hiện nay), và đạt đến độ cao 174,6 km hai năm sau đó. Từ năm 1944, tên lửa này bị coi là mối nguy tiềm tàng đối với nhiều nước.
3. Cả người Nga và người Mỹ đều ý thức được sự vượt trội về công nghệ tên lửa của Đức. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, họ đã tìm mọi cách Vơ vét tất cả những gì liên quan đến tên lửa V2. Ngay đến bảo tàng của Đức ở Peeneminde cũng chỉ có bản sao của V2 để giới thiệu với công chúng.
4. Người ta không chỉ lấy đi các nguyên liệu, bản vẽ mà cả những tác giả của công nghệ tên lửa. Những chuyên gia tên lửa hàng đầu của Đức đã cùng với Wernher von Braun nhanh chóng chạy về vùng Bayern để đầu hàng quân đội Mỹ. Một số người khác, tài năng không kém, thì rơi vào tay quân Nga. Nhưng bọn họ đã nhanh chóng được thả sau khi khai báo mọi thông tin cho Sergei Pavlovich Korolev (1906-1966).
5. Sergei Pavlovich Korolev có một thời gian dài ở Đông Đức để nghiên cứu về V2, nhờ đó ông đã phát triển thành công tên lửa R1 của Liên Xô. Không lâu sau đó cuộc chạy đua phát triển tên lửa liên lục địa quân sự giữa Mỹ và Liên Xô đã nổ ra đều dựa trên nền tảng V2.
6. Bước ngoặt xảy ra khi Liên Xô Poing Sputnik I am 1957. Nó trở thành củ SỐC lớn đối với nước Mỹ. Sau đó Liên Xô tiếp tục dẫn trước: "Luna 2" thực hiện chuyến hạ cánh cứng đầu tiên lên Mặt Trăng vào năm 1959, Yuri Gagarin là người đầu tiên bay quay quanh Trái Đất vào năm 1961 trên tàu vũ trụ "Vostok 1". Để đối chọi với “Sputnik” Mỹ tung ra dự án “Vanguard”. Tuy nhiên đây là một thất bại, trong số 12 cuộc phóng thì 9 không thành công. Các chuyên gia tên lửa của Đức không tham gia dự án này, họ được giao phát triển tên lửa quân sự Redstone trên nền so tàng V2.
7. 1961 là năm bản lề đối với hành trình chinh phục Mặt Trăng của loài người. Ngày 25.05.1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố mục tiêu ngay trong thập niên này sẽ đưa người lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Đây là một dự án đầy tham vọng và vô cùng tốn kém nhưng được khích lệ bởi quyết tâm không để thua Liên Xô một lần nữa.
8. Cũng trong năm đó Liên Xô đưa ra một chương trình Mặt Trăng tương tự, nhưng giữ bí mật. Chương trình chinh phục Mặt Trăng Apollo của Mỹ do Cơ quan không gian dân dụng NASA, ra đời năm 1958, chịu trách nhiệm. Wernher von Braun và đội ngũ của ông đóng một vai trò then chốt cho dù NASA thời kỳ đầu có tới 450.000 nhân sự tham gia giải quyết một khối lượng công việc khổng lồ mà thoạt đầu tưởng chừng to không thể kham nổi.
9. Von Braun có nhiệm vụ phát triển tên lửa Saturn V với chiều cao 111 mét, cho đến nay vẫn là loại tên lửa đẩy lớn nhất thế giới. Các bộ phận riêng lẻ được lắp ráp với nhau trong một nhà xưởng cao tới 160 mét ở Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy (KFC). Ngay trong chuyến bay thử đầu tiên vào ngày 9.11.1967 Saturn V đã thành công. Có thể nói toàn bộ chương trình tên lửa đẩy khổng lồ của Mỹ hầu như không gặp trục trặc đáng kể nào. Phải chăng von Braun và các cộng sự của ông đã gặp nhiều may mắn? Nhưng, may mắn chỉ đến với những người thực sự tài năng và có quyết tâm.
10. Trong khi đó Liên Xô vẫn lặng lẽ bí mật xúc tiến chương trình của mình. Đối thủ của Apollo khi đó là tàu vũ trụ Sojus, vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay. Ngay trong 1 chuyến bay đầu tiên đã xảy ra một tai nạn chết người, khi hạ cánh dù không hoạt động. Để phục vụ cho các chuyến bay lên Mặt Trăng, Liên Xô dự định sử dụng loại tên lửa đẩy N1, cao 105 mét. Trong khi dự án đang được triển khai, ngành du hành vũ trụ Liên Xô đã bị một cú đánh trời giáng. Tổng công trình sư thiên tài Sergei Pavlovich Korolev qua đời vào năm 1966 trong một ca phẫu thuật bệnh tim.
11. Hai kỳ phùng địch thủ Korolev và von Braun nay đã chỉ còn lại một. Nếu như Korolev không phải rời khỏi cuộc đua vì bệnh tật và cái chết, điều gì sẽ xảy ra? Sau đó thì phía Liên Xô ngày càng bế tắc. Tất cả bốn cuộc thử tên lửa từ 1969 đến 1972 đều trục trặc, không thành công, đến đây cuộc chạy đua coi như đã bị thất bại, Liên Xô ngừng chương trình Mặt Trăng.
(Theo Xuân Hoài lược dịch, Lịch sử cuộc đua lên Mặt Trăng, Tạp chí Tia sáng, ngày 08/03/2021)
Tên lửa V2 là sản phẩm của quốc gia nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?
Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 – 10.
1. Ngày 20.07.1969 Neil Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng, đánh dấu cột mốc quan trọng của nhân loại. Nhưng đằng sau đó là một cuộc đua quyết liệt giữa Mỹ và Liên Xô.
2. Công nghệ tên lửa vũ trụ hiện đại được khởi nguồn từ Viện nghiên cứu quân sự của Đức Quốc xã với giám đốc kỹ thuật Wernher von Braun khi đó tuổi đời còn rất trẻ. Đỉnh cao trong sự nghiệp của ông là việc phát triển thành công tên lửa cỡ lớn dài 14 mét có tên V2. Tháng 10/1942 V2 được phóng thành công lên tới độ cao 84,5 km (vượt qua ranh giới bầu khí quyển 80 km - theo tiêu chuẩn của NASA hiện nay), và đạt đến độ cao 174,6 km hai năm sau đó. Từ năm 1944, tên lửa này bị coi là mối nguy tiềm tàng đối với nhiều nước.
3. Cả người Nga và người Mỹ đều ý thức được sự vượt trội về công nghệ tên lửa của Đức. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, họ đã tìm mọi cách Vơ vét tất cả những gì liên quan đến tên lửa V2. Ngay đến bảo tàng của Đức ở Peeneminde cũng chỉ có bản sao của V2 để giới thiệu với công chúng.
4. Người ta không chỉ lấy đi các nguyên liệu, bản vẽ mà cả những tác giả của công nghệ tên lửa. Những chuyên gia tên lửa hàng đầu của Đức đã cùng với Wernher von Braun nhanh chóng chạy về vùng Bayern để đầu hàng quân đội Mỹ. Một số người khác, tài năng không kém, thì rơi vào tay quân Nga. Nhưng bọn họ đã nhanh chóng được thả sau khi khai báo mọi thông tin cho Sergei Pavlovich Korolev (1906-1966).
5. Sergei Pavlovich Korolev có một thời gian dài ở Đông Đức để nghiên cứu về V2, nhờ đó ông đã phát triển thành công tên lửa R1 của Liên Xô. Không lâu sau đó cuộc chạy đua phát triển tên lửa liên lục địa quân sự giữa Mỹ và Liên Xô đã nổ ra đều dựa trên nền tảng V2.
6. Bước ngoặt xảy ra khi Liên Xô Poing Sputnik I am 1957. Nó trở thành củ SỐC lớn đối với nước Mỹ. Sau đó Liên Xô tiếp tục dẫn trước: "Luna 2" thực hiện chuyến hạ cánh cứng đầu tiên lên Mặt Trăng vào năm 1959, Yuri Gagarin là người đầu tiên bay quay quanh Trái Đất vào năm 1961 trên tàu vũ trụ "Vostok 1". Để đối chọi với “Sputnik” Mỹ tung ra dự án “Vanguard”. Tuy nhiên đây là một thất bại, trong số 12 cuộc phóng thì 9 không thành công. Các chuyên gia tên lửa của Đức không tham gia dự án này, họ được giao phát triển tên lửa quân sự Redstone trên nền so tàng V2.
7. 1961 là năm bản lề đối với hành trình chinh phục Mặt Trăng của loài người. Ngày 25.05.1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố mục tiêu ngay trong thập niên này sẽ đưa người lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Đây là một dự án đầy tham vọng và vô cùng tốn kém nhưng được khích lệ bởi quyết tâm không để thua Liên Xô một lần nữa.
8. Cũng trong năm đó Liên Xô đưa ra một chương trình Mặt Trăng tương tự, nhưng giữ bí mật. Chương trình chinh phục Mặt Trăng Apollo của Mỹ do Cơ quan không gian dân dụng NASA, ra đời năm 1958, chịu trách nhiệm. Wernher von Braun và đội ngũ của ông đóng một vai trò then chốt cho dù NASA thời kỳ đầu có tới 450.000 nhân sự tham gia giải quyết một khối lượng công việc khổng lồ mà thoạt đầu tưởng chừng to không thể kham nổi.
9. Von Braun có nhiệm vụ phát triển tên lửa Saturn V với chiều cao 111 mét, cho đến nay vẫn là loại tên lửa đẩy lớn nhất thế giới. Các bộ phận riêng lẻ được lắp ráp với nhau trong một nhà xưởng cao tới 160 mét ở Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy (KFC). Ngay trong chuyến bay thử đầu tiên vào ngày 9.11.1967 Saturn V đã thành công. Có thể nói toàn bộ chương trình tên lửa đẩy khổng lồ của Mỹ hầu như không gặp trục trặc đáng kể nào. Phải chăng von Braun và các cộng sự của ông đã gặp nhiều may mắn? Nhưng, may mắn chỉ đến với những người thực sự tài năng và có quyết tâm.
10. Trong khi đó Liên Xô vẫn lặng lẽ bí mật xúc tiến chương trình của mình. Đối thủ của Apollo khi đó là tàu vũ trụ Sojus, vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay. Ngay trong 1 chuyến bay đầu tiên đã xảy ra một tai nạn chết người, khi hạ cánh dù không hoạt động. Để phục vụ cho các chuyến bay lên Mặt Trăng, Liên Xô dự định sử dụng loại tên lửa đẩy N1, cao 105 mét. Trong khi dự án đang được triển khai, ngành du hành vũ trụ Liên Xô đã bị một cú đánh trời giáng. Tổng công trình sư thiên tài Sergei Pavlovich Korolev qua đời vào năm 1966 trong một ca phẫu thuật bệnh tim.
11. Hai kỳ phùng địch thủ Korolev và von Braun nay đã chỉ còn lại một. Nếu như Korolev không phải rời khỏi cuộc đua vì bệnh tật và cái chết, điều gì sẽ xảy ra? Sau đó thì phía Liên Xô ngày càng bế tắc. Tất cả bốn cuộc thử tên lửa từ 1969 đến 1972 đều trục trặc, không thành công, đến đây cuộc chạy đua coi như đã bị thất bại, Liên Xô ngừng chương trình Mặt Trăng.
(Theo Xuân Hoài lược dịch, Lịch sử cuộc đua lên Mặt Trăng, Tạp chí Tia sáng, ngày 08/03/2021)
Y chính của đoạn 11 là:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Hệ laze đã chế tạo được thử nghiệm tại thành phố nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã có ý nghĩa gì?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã định hướng phát triển khoa học công nghệ theo hướng nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Những sáng chế trong lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa phục vụ cho?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Viện Ứng dụng Công nghệ đã hợp tác với quốc gia nào để xử lý vấn đề môi trường?
Thí sinh đọc Bài đọc và trả lời các câu hỏi 1 – 10.
1. Ngày 20.07.1969 Neil Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng, đánh dấu cột mốc quan trọng của nhân loại. Nhưng đằng sau đó là một cuộc đua quyết liệt giữa Mỹ và Liên Xô.
2. Công nghệ tên lửa vũ trụ hiện đại được khởi nguồn từ Viện nghiên cứu quân sự của Đức Quốc xã với giám đốc kỹ thuật Wernher von Braun khi đó tuổi đời còn rất trẻ. Đỉnh cao trong sự nghiệp của ông là việc phát triển thành công tên lửa cỡ lớn dài 14 mét có tên V2. Tháng 10/1942 V2 được phóng thành công lên tới độ cao 84,5 km (vượt qua ranh giới bầu khí quyển 80 km - theo tiêu chuẩn của NASA hiện nay), và đạt đến độ cao 174,6 km hai năm sau đó. Từ năm 1944, tên lửa này bị coi là mối nguy tiềm tàng đối với nhiều nước.
3. Cả người Nga và người Mỹ đều ý thức được sự vượt trội về công nghệ tên lửa của Đức. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, họ đã tìm mọi cách Vơ vét tất cả những gì liên quan đến tên lửa V2. Ngay đến bảo tàng của Đức ở Peeneminde cũng chỉ có bản sao của V2 để giới thiệu với công chúng.
4. Người ta không chỉ lấy đi các nguyên liệu, bản vẽ mà cả những tác giả của công nghệ tên lửa. Những chuyên gia tên lửa hàng đầu của Đức đã cùng với Wernher von Braun nhanh chóng chạy về vùng Bayern để đầu hàng quân đội Mỹ. Một số người khác, tài năng không kém, thì rơi vào tay quân Nga. Nhưng bọn họ đã nhanh chóng được thả sau khi khai báo mọi thông tin cho Sergei Pavlovich Korolev (1906-1966).
5. Sergei Pavlovich Korolev có một thời gian dài ở Đông Đức để nghiên cứu về V2, nhờ đó ông đã phát triển thành công tên lửa R1 của Liên Xô. Không lâu sau đó cuộc chạy đua phát triển tên lửa liên lục địa quân sự giữa Mỹ và Liên Xô đã nổ ra đều dựa trên nền tảng V2.
6. Bước ngoặt xảy ra khi Liên Xô Poing Sputnik I am 1957. Nó trở thành củ SỐC lớn đối với nước Mỹ. Sau đó Liên Xô tiếp tục dẫn trước: "Luna 2" thực hiện chuyến hạ cánh cứng đầu tiên lên Mặt Trăng vào năm 1959, Yuri Gagarin là người đầu tiên bay quay quanh Trái Đất vào năm 1961 trên tàu vũ trụ "Vostok 1". Để đối chọi với “Sputnik” Mỹ tung ra dự án “Vanguard”. Tuy nhiên đây là một thất bại, trong số 12 cuộc phóng thì 9 không thành công. Các chuyên gia tên lửa của Đức không tham gia dự án này, họ được giao phát triển tên lửa quân sự Redstone trên nền so tàng V2.
7. 1961 là năm bản lề đối với hành trình chinh phục Mặt Trăng của loài người. Ngày 25.05.1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố mục tiêu ngay trong thập niên này sẽ đưa người lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Đây là một dự án đầy tham vọng và vô cùng tốn kém nhưng được khích lệ bởi quyết tâm không để thua Liên Xô một lần nữa.
8. Cũng trong năm đó Liên Xô đưa ra một chương trình Mặt Trăng tương tự, nhưng giữ bí mật. Chương trình chinh phục Mặt Trăng Apollo của Mỹ do Cơ quan không gian dân dụng NASA, ra đời năm 1958, chịu trách nhiệm. Wernher von Braun và đội ngũ của ông đóng một vai trò then chốt cho dù NASA thời kỳ đầu có tới 450.000 nhân sự tham gia giải quyết một khối lượng công việc khổng lồ mà thoạt đầu tưởng chừng to không thể kham nổi.
9. Von Braun có nhiệm vụ phát triển tên lửa Saturn V với chiều cao 111 mét, cho đến nay vẫn là loại tên lửa đẩy lớn nhất thế giới. Các bộ phận riêng lẻ được lắp ráp với nhau trong một nhà xưởng cao tới 160 mét ở Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy (KFC). Ngay trong chuyến bay thử đầu tiên vào ngày 9.11.1967 Saturn V đã thành công. Có thể nói toàn bộ chương trình tên lửa đẩy khổng lồ của Mỹ hầu như không gặp trục trặc đáng kể nào. Phải chăng von Braun và các cộng sự của ông đã gặp nhiều may mắn? Nhưng, may mắn chỉ đến với những người thực sự tài năng và có quyết tâm.
10. Trong khi đó Liên Xô vẫn lặng lẽ bí mật xúc tiến chương trình của mình. Đối thủ của Apollo khi đó là tàu vũ trụ Sojus, vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay. Ngay trong 1 chuyến bay đầu tiên đã xảy ra một tai nạn chết người, khi hạ cánh dù không hoạt động. Để phục vụ cho các chuyến bay lên Mặt Trăng, Liên Xô dự định sử dụng loại tên lửa đẩy N1, cao 105 mét. Trong khi dự án đang được triển khai, ngành du hành vũ trụ Liên Xô đã bị một cú đánh trời giáng. Tổng công trình sư thiên tài Sergei Pavlovich Korolev qua đời vào năm 1966 trong một ca phẫu thuật bệnh tim.
11. Hai kỳ phùng địch thủ Korolev và von Braun nay đã chỉ còn lại một. Nếu như Korolev không phải rời khỏi cuộc đua vì bệnh tật và cái chết, điều gì sẽ xảy ra? Sau đó thì phía Liên Xô ngày càng bế tắc. Tất cả bốn cuộc thử tên lửa từ 1969 đến 1972 đều trục trặc, không thành công, đến đây cuộc chạy đua coi như đã bị thất bại, Liên Xô ngừng chương trình Mặt Trăng.
(Theo Xuân Hoài lược dịch, Lịch sử cuộc đua lên Mặt Trăng, Tạp chí Tia sáng, ngày 08/03/2021)
Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ
(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.
(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu.
(3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.
(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze... Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường.
(6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.
(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn...
(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.
(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Qúa trình thử nghiệm cho thấy máy hoạt động ổn định ở mức bao nhiêu % về thăng giáng năng lượng?