Đề 10
-
7115 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
30 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
Chúng tôi không mệt đâu
Nhưng cỏ sắc mà ấm quá!
Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ một cánh chim mảnh như nét vẽ
Nhiều đổi thay như một thoáng mây
Khi chúng tôi nằm nó vẫn ngồi nguyên đó
Ngậm im lìm một cọng cỏ may…
Những dấu chân lùi lại phía sau
Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất
Mười tám hai mươi sắc như cỏ
Dày như cỏ
Yêu mến và mãnh liệt như cỏ
Cơn gió lạ một chiều không rõ rệt
Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất
Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên
Hơn một điều bất chợt
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em…
(Trích Trường ca Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2:
Câu 3:
Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về lý tưởng người lính?
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Những dòng thơ:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
nói về lí tưởng của người lính sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân, sẵn sàng lên đường và hi sinh bảo vệ tổ quốc.Câu 4:
Anh/ chị nhận xét về những vẻ đẹp của hình tượng người lính thời kì chống Mĩ được thể hiện trong đoạn trích trên?
Những vẻ đẹp của hình tượng người lính thời kì chống Mĩ được thể hiện trong đoạn trích:
-Vẻ đẹp kiên cường, mạnh mẽ, đoàn kết, lãng mạn, nhiệt huyết,...
- Vẻ đẹp sẵn sàng chiến đấu và hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước.
(Thí sinh có thể trả lời theo cách khác mà phù hợp với nội dung đoạn trích vẫn được điểm tối đa)Câu 5:
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của lối sống có trách nhiệm.
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết đoạn nghị luận xã hội, đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ và chính kiến của mình để làm bài.
-Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thểHình thức:
-Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
-Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...Nội dung:
a.Nêu vấn đề cần nghị luận: Sống có trách nhiệm.
b.Giải thích:
- "Sống có trách nhiệm" là gì? Sống có trách nhiệm là làm tròn nghĩa vụ bổn phận với xã hội, trường lớp, gia đình và bản thân... dám làm, dám chịu trách nhiệm về những hành động của bản thân. Bổn phận là học sinh, là những tinh hoa tương lai của đất nước, chúng ta phải có trách nhiệm với bản trách nhiệm với bản thân, gia đình, những người xung quanh.c. Bàn luận: đưa ra lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục. Có thể tham khảo ý sau:
- Biểu hiện lối sống có trách nhiệm:
+ Với xã hội: làm tròn trách nhiệm công dân, sống có ích, biết cống hiến cho cộng đồng, xã hội.
+Với gia đình: sống có trách nhiệm với gia đình, yêu thương kính trọng cha mẹ, giúp đỡ, chăm sóc anh em.
+Với bản thân: sống lành mạnh, không ngừng nỗ lực phấn đấu để rèn luyện và tự hoàn thiện bản thân
- Ý nghĩa lối sống có trách nhiệm:
+ Sống có trách nhiệm sẽ hoàn thành được mọi công việc nhiệm vụ được giao.
+ Luôn được mọi người tin tưởng, yêu mến.
+ Người sống có trách nhiệm còn dễ dàng vươn đến thành công trong công việc và cuộc sống
- Chứng minh: Học sinh lấy dẫn chứng phù hợp, có phân tích ngắn gọn.
- Mở rộng vấn đề:
- Bên cạnh đó, trong cuộc sống vẫn còn rất nhiều người vô trách nhiệm, chỉ nghĩ về lợi ích của bản thân, mà quên đi trách nhiệm với cộng đồng xã hội và gia đình. Lối sống vô trách nhiệm làm băng hại đạo đức gia đình, gây tổn hại tới xã hội và bản thân chính cá nhân đó. Đây là lối sống đáng lên án.d. Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức được ý nghĩa của việc cần phải sống có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, quê hương đất nước.
- Cần phải ham học hỏi, luôn trau dồi vốn sống và kĩ năng sống, biết giúp đỡ, biết đồng cảm và yêu thương người khác, có chí hướng...Câu 6:
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng thành vách, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này qua bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở một hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà cao thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tong thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô to sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vút biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới…”
(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD)
Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân gửi gắm qua hình tượng sông Đà.
Yêu cầu chung:
- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về tác phẩm văn học, lí luận văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng cảm thụ văn chương để làm bài.. .
-Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.
Yêu cầu cụ thểĐầy đủ bố cục 3 phần:
-Mở bài: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp của hung bạo của sông Đà từ đó thấy được nét độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
-Kết bài: Khẳng định lại vấn đềKhái quát về tác giả, tác phẩm
-Tác giả:
+“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa”(Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử” – huyền sử của một người ưu lối chơi “độc tấu”.
+Là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp.
+ Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
-Tác phẩm:
+ In trong tập tùy bút Sông Đà (1960)
+ Thành quả của chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc.
+ Ở đó, nhà văn phát hiện ra chất vàng của thiên nhiên đặc biệt là thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động.Lời đề từ
– Thể hiện cảm hứng sáng tác và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân trong tùy bút.
+ Thể hiện tình yêu với thiên nhiên và con người trên sông Đà.
+ Nhắc đến sự ngạo ngược của dòng sông và khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương.Cảm nhận đoạn trích
*Cảnh vách đá bờ sông
– Vẻ đẹp hùng vĩ của con sông Đà không chỉ có nhiều thác đá mà nó còn là những cảnh đá ở 2 bên bờ sông, đá dựng vách thành -> nghệ thuật ẩn dụ “vách thành” phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và sức mạnh đầy bí ẩn đe dọa của Sông Đà.
– Với cách so sánh rất độc đáo, mới mẻ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết hầu” của con người ra để ví von với những bức thành đá cao lớn ép chặt lấy lòng sông Đà đén nghẹt thở.
– Cái hẹp của lòng sông Đà được tác giả mô tả hẹp theo đủ cách khác nhau:
+ Chỉ và đúng lúc “ngọ” giữa buổi trưa, khi mặt trời lên cao nhất và chiếu thẳng xuống lòng sông thì lòng sông mới nhận được chút tia nắng ấm áp ít ỏi và khi thời gian trôi đi thì những tia nắng ấy cũng dần biến mất.
+ Chỉ cần đứng từ bên bờ bên này nhẹ tay ném một hòn đá nhỏ cũng có thể qua đến vách đá bên kia bờ sông.
+ Hơn nữa có quãng hẹp đến nỗi con nai con hổ cũng có lần đã vọt từ bên bờ bên này sang được bờ sông bên kia.
+ Mùa hè ngồi trong khoang đò đi qua quãng sông ấy mà cũng cảm thấy mát lạnh, thấy mình như đứng ở một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ của một tòa nhà cao tầng nào đó.
-> Miêu tả sự vật thông qua cảm giác: tạo ấn tượng tương phản thông qua xúc giác, ấn tượng với thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi vách đá, truyền cho người đọc hình dung về cái tối tăm lạnh lẽo.
– So sánh “một khung cửa sổ nòa trên cái tầng thứ mấy nào vừa phụt tắt đèn điện”: làm tăng thêm về độ cao hun hút, thăm thẳm, rợn ngợp.
->Bằng việc so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ lạ lùng tác giả Nguyễn Tuân như đã lục lọi hết cả kho từ ngữ phong phú của mình để tìm ra được những ngôn từ đắt giá nhất có thể làm kinh động đến hồn trí người đọc khi miêu tả những vách đá bên bờ sông Đà.
*Quãng mặt ghềnh Hát Loóng
– Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện của các thanh trắc, những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ trong cụm từ ngữ “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” -> tái hiện sức mạnh dữ dội của thiên nhiên.
– Động từ “xô” điệp lại trong cả ba vế -> gây ấn tượng về sự chuyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác. Mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn, chồm lên nhau theo chiều ngang và vút lên cao theo chiều dọc, rồi đổ ấp xuống, trùng điệp trên mặt ghềnh.
– Từ “ghùn ghè” và hình ảnh mang đậm sắc thái nhân hóa: lúc nào cũng đòi nợ xuyết bất cứ người lái đò nào qua đó -> thể hiện sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông.
*Quãng Tà Mường Vát
– Như những “cái bẫy” cứ nối nhau giăng mắc trên sông Đà từ quãng này đến quãng khác, địa danh này đến địa danh khác. Ở đây, tác giả dụng công miêu tả những cái “hút nước” ghê rợn trên sông Đà, lòng sông ẩn chứa nhiều nguy hiểm đe dọa con người, sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền bè đi ngang qua.
– Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà văn đã tái hiện nhưng cái hút nước ấy từ hình dạng bên ngoài đến âm thanh và hậu quả khủng khiếp mà nó gây ra cho con người.
+ Cách so sánh nó với “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”.
+ Cùng với câu văn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” -> hai biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa được sử dụng cùng một lúc khiến hiệu quả gợi hình, gợi âm sắc, gợi cảm xúc của Nguyễn Tuân được nhân lên gấp bội. Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng.
– Hình ảnh những cái hút nước quãng này cũng đang quay “những cánh quạ đàn”:
+ Nước xoáy tròn sẵn sàng đưa mọi thứ gần đó xuống đáy sâu mà phía trên trông như đang quạt thật mạnh, thật điên cuồng với khát vọng khuất phục mọi thứ.
+ Sặc lên mùi tử khí của quãng này. Dòng sông Đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực, dữ dội hơn rất nhiều.
– Sự liên tưởng thú vị: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.
-Hậu quả khi vô ý đi ngang qua cái hút nước được tác giả dự báo trước: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống…tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sức mạnh của thiên nhiên từ lâu vốn là mối đe dọa đối với con người. Có trách là trách “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý”, hoặc đi trên sông Đà mà người chèo thuyền không đủ tự tin, bản lĩnh, không am hiểu quy luật của dòng nước thì “thuyền bị trồng ngay cây chuối ngược” cũng là chuyện thường tình, không trách ai được. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả sự tài hoa, tinh tế, trí thông minh, lòng dũng cảm của ông lái đò như một tấm gương sông nước nơi núi rừng khắc nghiệt, hiểm trở này.
Nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân gửi gắm qua hình tượng sông Đà
- Sở thích săn tìm những gì dữ dội, mãnh liệt và là một thầy phù thủy ngôn từ, hình ảnh.
+Trong tùy bút Sông Đà ông đã dùng hết tài năng, vốn từ ngữ của mình tung ra trang giấy để tái hiện sự hung bạo của dòng sông cũng như vẻ đẹp trữ tình của một "cố nhân" lâu ngày gặp lại".
+Với sự hiểu biết rộng rãi của mình, Nguyễn Tuân đã sử dụng từ ngữ trong nhiều lĩnh vực để tái hiện được hết tất cả những góc độ khác nhau của dòng sông. Có ngôn ngữ của điện ảnh ("Contre – plongée"); có võ thuật ("đánh khuýp quật vu hồi"); có cả từ ngữ về ô tô ("sang số nhấn ga"… Những từ ngữ này mang đặc trưng của mỗi lĩnh vực nhưng đều tập trung thể hiện dòng sông Đà.
-> Với cách sử dụng từ ngữ , hình ảnh như thế, nhà văn đã đưa nhiều lĩnh vực tưởng xa với văn chương trở nên gần gũi để tập trung thể hiện hình tượng văn học.
- Nhìn nhân vật ở góc độ của một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa. Nhân vật trong tác phẩm của ông luôn được soi chiếu ở phương diện văn hóa, mĩ thuật của nó. Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như "kẻ thù số một" của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng, mơ màng, có nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc cảm.
- Tình yêu thiên nhiên, tình yêu tiếng Việt -> Biểu hiện tình yêu đất nước thầm kín.Nhận xét, đánh giá
– Vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh…
– Lối hành văn đầy biến hóa, độc đáo, giàu sức gợi tả và gợi cảm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau để quan sát, miêu tả hoặc bộc lộ cảm xúc.
– Xây dựng thành công vẻ hung bạo của Sông Đà qua những từ ngữ bạo khỏe, gân guốc, câu văn ngắn gọn…
– Nguyễn Tuân là một định nghĩa đầy đủ về người nghệ sĩ. Ông suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Đọc văn của ông, người ta thấy một con người tài hoa, uyên bác.
Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu
Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận