Đề 11
-
7230 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
30 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
Nước mắt này chẳng muốn rớt đâu con Về đi thôi, bữa cơm chiều vẫn đợi Cây khế già, cây xoan nâu cứ hỏi… Dáng yêu thương sao lạc mãi chưa về? Áo con xanh và mái tóc còn xanh Như lá đang xuân, sao lìa cành bất chợt? Mẹ hỏi trời, trời mưa nhòe tấm tức Mẹ hỏi đất, đất câm nín không hay. Chiếc áo sờn, hơi ấm vẫn còn đây Mẹ cầm trên tay – bế bồng thơ ấu |
Quản gì đâu bao mồ hôi xương máu Cho hôm nay con khôn lớn hình hài Để hoàng hôn đời mẹ vẫn thấy nắng ban mai Lấp lánh mắt con khoác trên mình cảnh phục Người chiến sĩ sẽ vì dân vì nước Nối gót cha ông, yêu dòng máu Lạc Hồng. […] Đất nước tự hào vì có các con Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi Ngủ đi con, cho mẹ ru lần cuối Giấc thảnh thơi bay đến những mặt trời. |
(Trích Ngủ đi con, cho mẹ ru lần cuối… – Lương Đình Khoa)
Thực hiện các yêu cầu:
Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?Câu 2:
2 câu hỏi tu từ được tác giả sử dụng trong đoạn trích:
Dáng yêu thương sao lạc mãi chưa về?
Như lá đang xuân, sao lìa cành bất chợt?Câu 3:
Anh chị hiểu như thế nào về hai câu thơ: Đất nước tự hào vì có các con – Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi
Ý nghĩa hai câu thơ: Đất nước tự hào vì có các con – Nhịp trái tim đập nhịp bình yên sông núi:
- Tự hào trước sự hi sinh của của các anh-những người chiến sĩ.
- Sự hi sinh của các anh mang lại bình yên cho đất nước.Câu 4:
Anh/ chị nhận xét về về tấm lòng người mẹ trong đoạn trích trên?
- Mẹ bao vất vả mồ hôi xương máu nuôi lớn con thành người chiến sĩ, giờ đây khi con hi sinh mẹ không khỏi đau đớn, xót xa.
- Mẹ cố nén những dòng nước mắt, tự hào vì sự hi sinh của con mang lại bình yên cho đất nước, hát ru con về với đất mẹ.
- Qua đó thấy được tấm lòng đầy tình yêu thương của mẹ.
(Thí sinh có thể trả lời theo cách khác mà phù hợp với nội dung đoạn trích vẫn được điểm tối đa)Câu 5:
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về về sự hi sinh của những người lính giữa thời bình.
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết đoạn nghị luận xã hội, đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ và chính kiến của mình để làm bài.
-Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thểHình thức:
-Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
-Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...Nội dung:
a.Nêu vấn đề cần nghị luận: Sự hi sinh của những người lính giữa thời bình.
b.Giải thích:
- Hi sinh là vì người khác mà chịu sự thiệt thòi về bản thân mình. Đó là những suy nghĩ, hành động tự nguyện vì người khác, không vụ lợi cá nhân, đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của bản thân và có thể hi sinh tính mạng của mình vì sự sống của người khác.
- Những tưởng những sự hi sinh mất mát chỉ có trong chiến tranh, ấy vậy mà, ngay giữa thời bình, vẫn có biết bao người lính đã ngã xuống, hi sinh thân mình vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự bình yên của đất nước.c. Bàn luận: đưa ra lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục. Có thể tham khảo ý sau:
- Khi bom đạn chiến tranh đã qua đi, đức hi sinh của con người vẫn luôn được thể hiện trong cuộc sống thường nhật, cảm động nhát là hình ảnh những người lính.
+ Họ là những người lính hi sinh khi làm nhiệm vụ: đó là những chiến sĩ hi sinh khi bảo vệ sân bay Miếu Môn ở Đồng Tâm, là hai chiến sĩ công an Đà Nẵng hi sinh khi truy đuổi tội phạm… Có những người ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ.
+ Trong thời kì dịch bệnh, sẵn sàng bắt gặp những người lính không ngại khó, ngại khổ trong những khu cách li, hay cắm chốt bảo vệ vùng biên cương tổ quốc...
– Sự hi sinh của họ đã trở thành lí tưởng sống. Đối với họ, sống là cống hiến, là hi sinh để có thể mang lại hạnh phúc cho đồng bào, dân tộc. Bao nhiêu gian nan, khổ cực cũng không thể khiến họ lùi bước.
d. Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức được lí tưởng sống tốt đẹp, vị tha, nhân ái.
- Liên hệ bản thân.Câu 6:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gáy, Mị dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, a Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mị ngã xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mị trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mị chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết đau, chết đối, chết rét, phải chết. Ta là thân phận đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ ... Mị phảng phất nghĩ như vậy. Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy sợ...Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng "Ði đi..." rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vung lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc. Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại vừa thở vừa nói:
- Ở đây chết mất,
A Phủ chợt hiểu.
Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục)
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về giá trị nhân đạo được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích.
Yêu cầu chung:
- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về tác phẩm văn học, lí luận văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng cảm thụ văn chương để làm bài.. .
-Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.
Yêu cầu cụ thểĐầy đủ bố cục 3 phần:
-Mở bài: Giới thiệu hình tượng nhân vật Mị và diễn biến tâm trạng, hành động Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ. Từ đó, thấy được giá trị nhân đạo lớn lao được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích.
-Kết bài: Khẳng định lại vấn đềKhái quát về tác giả, tác phẩm
-Tác giả:
+Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học Việt Nam hiện đại.
+Có quan niệm nghệ thuật "vị nhân sinh" độc đáo.
+Là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta nhất là phong tục tập quán của đồng bào miền núi Tây Bắc.
- Tác phẩm:
+Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
+ Tác phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩmCảm nhận đoạn trích
*Hoàn cảnh và tâm trạng Mị trước đêm cởi trói A Phủ:
- Cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn.Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị quan tâm.
- Những đêm tình mùa xuân về trên bản Mèo Hồng Ngài, khiến tâm hồn vốn đã chai sạn của Mị dần dần được đánh thức, nhưng ngay khi sức sống tiềm tàng của Mị hồi sinh cũng là lúc sức sống ấy một lần nữa bị A Sử dập tắt.
- Đêm mùa đông đến, lúc đầu Mị thổi lửa hơ tay, tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
- Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn.
- Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.
* Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ
- Ban đầu, trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm:
Cô "thản nhiên thổi lửa hơ tay". Phản ứng này của Mị cũng là điều hiển nhiên vì cảnh trói người đến chết như thế ở nhà thống lí là chuyện bình thường. Vả lại, có lẽ "ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen khổ rồi" nên cái khổ của người khác cũng thế thôi.
- Sau từ vô cảm đến đồng cảm:
Những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ).
- Thương mình, thương người:
Mị nhận ra sự độc ác và bất công của cha con thống lí "Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia việc gì mà phải chết.
- Hành động cứu người: "Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây". Cuối cùng, sức mạnh của tình thương cùng với niềm khát khao tự do trỗi dậy đã khiến Mị vượt qua nỗi sợ hãi để quyết định một hành động táo bạo: Cắt dây trói cứu A Phủ.
- Hành động cứ người cũng là tự giải thoát cuộc đời mình: đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng…; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ: "Mị đứng lặng trong bóng tối. Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ .... Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại vừa thở vừa nói:
- Ở đây chết mất.."
->Đây là hệ quả tất yếu sau những gì diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những gông xiềng của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
* Ý nghĩa việc miêu tả tâm trạng và hành động của Mị
-Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí đã tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
- Thể hiện giá trị nhân đạo: phát hiện và miêu tả sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động bị áp bức trong xã hội cũ.Giá trị nhân đạo được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích:
- Tố cáo tội ác của cường quyền và thần quyền ở vùng núi cao Tây Bắc những năm trước cách mạng đã bóc lột cả về thể chất và tâm hồn người lao động.
-Trân trọng khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động vùng cao.
-Nhà văn tin tưởng vào khát vọng ham sống mãnh liệt của con người sẽ giúp họ có niềm tin và sức mạnh vượt qua nỗi sợ hãi cá nhân để hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ sẽ được đổi đời khi cách mạng đến.Nhận xét, đánh giá đặc sắc nghệ thuật
- Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
- Miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật tài tình.
- Xây dựng nhân vật sinh động, có cá tính.
- Ngôn ngữ sinh động, sáng tạo, giàu tính tạo hình.
- Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn.
Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.